Cùng Tép Bạc tìm hiểu trong khoảng một thập kỷ qua, đã có những sự gia tăng và phát triển nào trong nuôi trồng thủy sản trên toàn cầu.
Những số yếu tố đã góp phần vào sự bùng nổ: Chi phí khai thác thủy sản tăng và liên tục tăng do giá nhiên liệu tăng mạnh. Lo ngại về việc giảm sản lượng khai thác cá biển của các quốc gia phụ thuộc vào việc đánh bắt cá trong lãnh hải của các quốc gia khác do luật mới về vùng biển đặc quyền kinh tế 200 dặm.
Ở một số quốc gia, nhu cầu tìm việc làm thay thế và/hoặc bổ sung cho số lượng lớn ngư dân dư thừa hoặc nông dân thiếu việc làm. Nhu cầu dai dẳng ở hầu hết các nước phát triển đối với các loài có giá cao như tôm và tôm thẻ chân trắng. Điều này đã thúc đẩy đáng kể sự quan tâm đến nuôi trồng thủy sản ở các quốc gia muốn tăng thu nhập ngoại hối.
Nuôi trồng thủy sản bao gồm nuôi các sinh vật dưới nước, như cá, động vật thân mềm (sò, ốc, mực), giáp xác (tôm, cua), thực vật (rong). Khoảng năm 500 trước Công nguyên, người La Mã đã nuôi hàu và cá ở các đầm phá Địa Trung Hải, trong khi nuôi trồng thủy sản nước ngọt đã phát triển theo kinh nghiệm khoảng 1000 năm trước đó ở Trung Quốc. Nuôi cá chép trong ao dẫn đến việc thuần hóa hoàn toàn loài này vào thời Trung cổ, đó cũng là lúc nghề nuôi trai bắt đầu, theo một kỹ thuật hầu như không thay đổi cho đến thế kỷ 20.
Bằng chứng sớm nhất về việc nuôi cá có từ trước năm 1000 trước Công nguyên ở Trung Quốc. Triều đại nhà Chu (1112-221 TCN), sau đó là chính trị gia Fan Li, khoảng 500 TCN, là những người đầu tiên mô tả cá chép, một biểu tượng của sự may mắn và may mắn, được nuôi để làm thực phẩm. Vào thời nhà Đường, khoảng năm 618, Hoàng đế Li, tên có nghĩa là cá chép, đã cấm nuôi loài cá mang tên ông.
Sau đó, nông dân chuyển sự chú ý sang các loài cá tương tự trong họ Cyprinidae và phát triển hình thức nuôi ghép đầu tiên. Phân lỏng từ chăn nuôi gia súc cũng được sử dụng để kích thích sự phát triển của tảo trong ao và làm cho ao giàu dinh dưỡng hơn. Các đáy ao sau đó được tháo nước để đến lượt chúng cũng được sử dụng làm phân bón. Các hệ thống nông nghiệp-nuôi trồng thủy sản tích hợp đầu tiên xuất hiện ở Trung Quốc, nơi chúng vẫn được thực hiện cho đến ngày nay.
Ở châu Âu, nuôi trồng thủy sản lần đầu tiên bắt đầu ở La Mã cổ đại. Người La Mã, những người yêu thích cá biển và hàu, đã tạo ra các trang trại nuôi hàu và sử dụng vivarium của người Assyria, một loại bể bơi nơi cá và động vật giáp xác đánh bắt trong đầm phá được giữ sống cho đến khi ăn chúng. Những vivaria này được xây dựng bên trong những ngôi nhà giàu có hơn, nơi khách có thể chọn loại cá mà họ muốn ăn.
Vào thời Trung cổ, trên khắp châu Âu thời phong kiến, các dòng tu và tầng lớp quý tộc là những người sử dụng chính cá nước ngọt vivaria, vì họ có độc quyền đối với đất đai, rừng và các nguồn nước. Nuôi hến được phát minh vào thế kỷ 13 và kỹ thuật này hầu như không thay đổi cho đến những năm 1960.
Nuôi cá nước ngọt được phát triển hơn nữa trong thời kỳ Phục hưng. Một số sách đã được xuất bản, cung cấp thông tin chi tiết về kỹ thuật xây dựng và quản lý ao, lựa chọn loài để nuôi, bệnh tật và chế độ ăn uống của chúng. Cá chép thống trị các ao nhân tạo ở Đông Âu. Hoàng đế Charles IV đã ra lệnh xây dựng nhiều ao như vậy ở Bohemia, nơi ngày nay là vùng cực tây của Cộng hòa Séc.
Nhân giống nhân tạo được phát hiện ở Đức trong thời kỳ Khai sáng, nhưng phải đến thế kỷ 19, thời đại công nghiệp hóa nhanh chóng, người ta mới chú ý nhiều đến nó. Trong một trăm năm, ngành công nghiệp đã thay đổi cảnh quan châu Âu. Ô nhiễm khiến quần thể cá giảm dần và các con đập cũng như kênh tưới tiêu cản trở đường di cư của một số loài, chẳng hạn như cá hồi. Để chống lại sự suy giảm nghiêm trọng này, nghiên cứu sinh sản nhân tạo tập trung vào nuôi cá hồi và các nhà nghiên cứu đã thành thạo tất cả các giai đoạn của quy trình, từ thụ tinh đến lưu trữ và vận chuyển trứng, nuôi trong ao và thả cá vào tự nhiên. Các trại sản xuất giống xuất hiện khắp phương Tây và vào những năm 1860, cá hồi và các loài cá hồi khác đã xâm chiếm các con sông trên khắp thế giới, ở Hoa Kỳ, Ấn Độ, New Zealand và thậm chí cả Nhật Bản, một trong những nhà sản xuất rong biển ăn được đầu tiên.
Trong năm thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20, những người thực dân đã du nhập và sau đó nuôi các loài cá khác ở các thuộc địa Anh-Bỉ ở Châu Phi, cho dù là để câu cá giải trí, để ngăn chặn sự lây lan của bệnh xuất huyết (sử dụng các loài ăn côn trùng), hoặc để làm nguồn thực phẩm (cá rô phi). Ở Kibbutzim của Israel, nông dân đã áp dụng các phương pháp truyền thống du nhập từ Đông Âu vào môi trường khô cằn và phát triển các kỹ thuật mới, cho phép họ tự cung tự cấp các sản phẩm cá.
Vào cuối những năm 1950, việc phát minh ra thức ăn dạng hạt nhân tạo đã cách mạng hóa nghề nuôi cá, mà cho đến lúc đó vẫn dựa vào các sản phẩm từ nông nghiệp và chăn nuôi (thịt sống), để làm thức ăn cho cá.