Ninh Bình: Nuôi tôm công nghệ cao, mạo hiểm nhưng không nản chí

Những năm gần đây, nhiều người dân ở huyện Kim Sơn (Ninh Bình) đã mạnh dạn ứng dụng công nghệ cao trong ao nổi có mái che để nuôi tôm thẻ chân trắng. Mô hình này đã góp phần giúp người nuôi vượt qua khó khăn, thách thức mà nghề nuôi tôm đang phải đối diện như biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh… Tuy nhiên, nếu không đảm bảo kỹ thuật, người nuôi cũng rất dễ trắng tay.

Anh Đặng Thanh Tân (thị trấn Bình Minh, huyện Kim Sơn) đầu tư nuôi tôm công nghệ cao theo 3 giai đoạn trên tổng diện tích hơn 2ha, trong đó hệ thống ao nổi có mái che là 5.000m2. Anh Tân chia sẻ: Nuôi tôm công nghệ cao bảo khó cũng đúng mà dễ cũng đúng. Khó là chi phí đầu tư ban đầu lớn, không phải hộ nào cũng có đủ nguồn vốn để làm. Bên cạnh đó, nuôi theo hình thức này người nuôi cũng cần phải thực sự tâm huyết, thường xuyên trau dồi kiến thức về kỹ thuật nuôi, cách thức vận hành các thiết bị hiện đại…Dễ là khi cơ sở vật chất đã ổn định, người nuôi nắm vững được kỹ thuật thì không khó để vận hành, kiểm soát được toàn bộ quá trình sản xuất, từ đó giúp giảm chi phí và công lao động.

Nuôi tôm công nghệ cao giúp anh Đặng Thanh Tân ở thị trấn Bình Minh, huyện Kim Sơn (bên phải) thu được lợi nhuận lớn khi gia tăng được số vụ nuôi trong năm. Ảnh: Trung Quân

Từ chỗ chưa biết nuôi tôm công nghệ cao là gì, hiện tại, trung bình hàng năm anh Đặng Thanh Tân đã nuôi được 3 vụ tôm với sản lượng từ 25 – 30 tấn. Năm 2022, sau khi trừ chi phí anh lãi khoảng 1,2 tỷ đồng. 

Năm 2017, anh Dương Viết Luynh, thị trấn Bình Minh bắt đầu chuyển hướng nuôi tôm công nghệ cao trong ao nổi có mái che với diện tích khu nuôi 25.000m2. Trong đó, hệ thống ao nổi có mái che là 6.000m2, còn lại là hệ thống ao phụ trợ. Sản lượng tôm trung bình hàng năm gia đình anh xuất ra thị trường khoảng 40 – 45 tấn. Theo anh Luynh, để nuôi tôm công nghệ cao thành công, người nuôi phải đảm bảo được các yếu tố như ao nuôi cần được thiết kế và xây dựng phù hợp với đặc tính của tôm (kích thước, độ sâu, độ thông gió, hệ thống lọc và tuần hoàn nước…); có nguồn tôm giống chất lượng; thức ăn phù hợp; nguồn nước cấp vào ao nuôi đảm bảo; người nuôi phải nắm vững kỹ thuật nuôi; thiết bị nuôi hiện đại; có nguồn lực tài chính…

Về kỹ thuật nuôi, anh cũng như hầu hết các hộ đều áp dụng phương pháp nuôi tôm theo các giai đoạn, ban đầu thả tôm với mật độ cao (1.500 – 2.000 con/m2), sau đó san dần sang các ao với mật độ thưa hơn (phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của tôm) và giai đoạn về đích khoảng 100 con/m2.

Mô-hình-nuôi-tôm-công-nghệ-cao-ở-huyện-Kim-Sơn-Ninh-Bình

Trong thời gian tới, huyện Kim Sơn sẽ tiếp tục quy hoạch, nhân rộng mô hình nuôi tôm công nghệ cao, hướng đến phát triển thủy sản bền vững, nâng cao hiệu quả kinh tế. Ảnh: Thu Dung

Anh Luynh chia sẻ, ưu điểm nổi trội của nuôi tôm công nghệ cao là nuôi được tôm vụ đông. Lúc này, nguồn cung khan hiếm nên giá bán tôm luôn ở mức cao từ 350.000 – 380.000 đồng/kg (thông thường các vụ trong năm chỉ từ 150.000 – 200.000 đồng/kg). Giá trị của việc nuôi được vụ tôm đông mang lại rất lớn, nhiều hộ nhờ vụ tôm này mà phất lên. Tuy nhiên, nếu hộ nào chủ quan, lơ là, ỷ lại vào hệ thống cơ sở vật chất mà không sát sao với đàn tôm thì nguy cơ trắng tay hoàn toàn có thể xảy ra.

Miền Bắc thường có mùa đông lạnh, nhiệt độ hạ thấp nên nếu nuôi tôm trong ao không có mái che chỉ nuôi được 1 – 2 vụ/năm. Do vậy, khi dùng công nghệ cao, các hộ có thể nuôi được 3 vụ/năm, gia đình nào khéo gối vụ có thể nuôi được 4 vụ/năm. Nhờ đó, hiệu quả kinh tế của người nuôi được tăng lên. Bên cạnh đó, khi nuôi theo hình thức này, người nuôi dễ dàng kiểm soát được nguồn nước trước khi cấp vào ao nuôi thông qua việc xử lý kỹ lưỡng hệ thống ao lắng, phụ trợ. Đồng thời, kiểm soát được nguồn thức ăn, giảm lượng thức ăn thừa, dễ dàng vệ sinh ao nuôi, chủ động nguồn nước… Nhờ đó, giảm được tỉ lệ hao hụt đầu con, kiểm soát, giảm thiểu rủi ro mầm bệnh.

Ngoài ra, khi áp dụng công nghệ cao người nuôi cần đặc biệt chú ý đến nước dùng cho ao nuôi. Khi nuôi trong ao nổi lót bạt, nước sẽ được thay hàng ngày, do đó hệ thống nước cung cấp cho ao nuôi phải luôn chủ động, không bị ô nhiễm. Trước khi nước được đưa vào ao nuôi cần xử lý kỹ lưỡng bằng thuốc tím, chế phẩm vi sinh tại hệ thống ao lắng và ao phụ trợ. Các chỉ số như độ pH, NH3 hay H2S… trong nước phải được kiểm soát và ghi chép hàng ngày. Đồng thời, cần lắp đặt thêm quạt nước để cung cấp đủ oxy cho tôm.

Khánh Nguyễn

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *